Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

ỨNG XỬ CỦA NGƯỜI VIỆT VỚI HÔN NHÂN QUA CA DAO TỤC NGỮ


   
                                                                                              Hồ Tâm Nguyên
                                                                                         ĐH Kiến Trúc TP.HCM

1.Dẫn nhập
Hôn nhân là một trong những sự kiện quan trọng nhất của cuộc đời mỗi con người. Nó là cột mốc đánh dấu sự gắn kết giữa nam và nữ cả về tinh thần lẫn vật chất, tạo thành một gia đình riêng, sống độc lập với bố mẹ.
Khái niệm hôn nhân có nhiều định nghĩa. Theo Wikipedia, hôn nhân hiểu một cách chung nhất có thể được xác định như sự xếp đặt của mỗi một xã hội để điều chỉnh mối quan hệ sinh lý giữa nam và nữ. Nó là một hình thức xã hội luôn luôn thay đổi trong suốt quá trình phát triển của mối quan hệ giữa họ, nhờ đó xã hội xếp đặt và cho phép họ sống chung với nhau, quy định quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Còn theo Từ điển bách khoa Việt Nam tập 2, hôn nhân là một thể chế xã hội kèm theo những nghi thức xác nhận quan hệ tính giao giữa hai hay nhiều người thuộc hai giới tính khác nhau, được coi là chồng và vợ, quy định mối quan hệ và trách nhiệm giữa họ với nhau, giữa họ với con cái của họ, sự xác nhận đó trong quá trình phát triển của xã hội dần dần mang thêm những yếu tố mới.
Từ những định nghĩa trên, có thể nhận thấy hôn nhân là một nhu cầu xã hội và nó luôn luôn được thừa nhận dù ở trong bất cứ xã hội nào. Đồng thời, sự biến đổi của hôn nhân qua các thời kì luôn gắn liền với hình thái xã hội đó, từ buổi đầu ban sơ là chế độ quần hôn, đến chệ độ mẫu hệ, phụ hệ - đa thê và cuối cùng là chế độ một vợ một chồng như ngày nay.
Trải qua lịch sử hàng ngàn năm, người Việt xưa đã đúc kết những kinh nghiệm của mình trong cách ứng xử với hôn nhân thông qua ca dao, tục ngữ. Thông qua việc phân tích những câu ca dao, tục ngữ này, ta có thể hiểu thêm được những nét đặc trưng văn hóa của dân tộc – những giá trị tiêu biểu về tinh thần và vật chất mà dân tộc đã tích lũy được trong quá trình lịch sử Việt Nam.
2.Cơ sở tiếp cận
Ca dao, tục ngữ thuộc lĩnh vực văn học dân gian – một bộ phận quan trọng cấu thành văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian có thể được định nghĩa là những phong tục, tập quán, ca dao, tục ngữ, chuyện thần thoại…của những người thời trước [1]. Có thể thấy rằng, văn hóa dân gian có sự ra đời và định hình gắn liền với lịch sử phát triển lâu đời của dân tộc, khởi nguồn từ xã hội nguyên thủy. Đó là thời kì văn hóa Đông Sơn gắn liền với sự ra đời của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, thời kì khởi thủy của lịch sử dân tộc và lịch sử văn hóa Việt Nam. Chính vì vậy, văn hóa dân gian thường được coi là cội nguồn văn hóa của dân tộc, văn hóa gốc hay văn hóa mẹ. Bên cạnh sự ra đời và phát triển của văn hóa bác học hay văn hóa cung đình, văn hóa dân gian vẫn tồn tại và đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam bởi văn hóa dân gian gắn liền với những sinh hoạt văn hóa cộng đồng của đại bộ phận người lao động. Có thể nói văn hóa dân gian là tấm gương phản ánh cuộc sống phong phú của quần chúng nhân dân. Như vậy, có thể thấy rằng,văn hóa dân gian được coi là văn hóa gốc bởi lẽ nó mang tính bản địa rất cao. Tất cả những yếu tố này đã khiến cho văn học dân gian hàm chứa cao những đặc trưng văn hóa của dân tộc.
Trong bất cứ một nền văn hóa nào, ngôn ngữ luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc thể hiện và chuyển giao văn hóa. Đây là một phương tiện giúp cho văn hóa có thể được truyền từ thế trước sang thế hệ sau, là cơ sở để lưu giữ, bảo tồn và phát triển tiếp nối. Phương tiện ngôn ngữ được bổ sung và hoàn thiện dần theo lịch sử phát triển của xã hội, theo những trào lưu và xu hướng tiếp xúc văn hóa có từ xưa cho đến ngày này. “Toàn bộ các từ trong ngôn ngữ, đó chính là phương tiện nối kết các hiện tượng bên ngoài với thế giới bên trong của con người… Đặc biệt, bản sắc riêng của mỗi dân tộc luôn luôn được thể hiện qua tiếng mẹ đẻ của họ; ngôn ngữ là nơi bảo lưu tinh thần, văn hóa dân tộc, sức mạnh liên minh giữa các dân tộc- tất cả để lại dấu ấn tài tình trong mỗi âm thanh” (W. Humbold; 1; tr.203). “Ngôn ngữ đã chứa đựng trong mình toàn bộ di sản văn hoá của các thế hệ trước, xác định hành vi của những con người hiện tại, trong một mức độ nào đó, ngôn ngữ còn làm tiền đề cho con người trong tương lai, có nghĩa chính ngôn ngữ sản sinh và sáng tạo ra con người” (M. Kheydegger, dẫn theo 1; tr.203).[2]
Như vậy, qua phân tích ở trên, ta thấy rằng việc đi tìm những ứng xử của người xưa thông qua ca dao, tục ngữ để từ đó hiểu được những nét đặc trưng văn hóa là có cơ sở khoa học cụ thể.
3. Những quan niệm về hôn nhân qua ca dao, tục ngữ
Hiện thực đời sống hôn nhân – gia đình của các giai đoạn trước trong xã hội Việt Nam được phản ánh rất phong phú qua ca dao, tục ngữ. Sự đa dạng, phong phú trong quan niệm và tục lệ hôn nhân của người Việt trước hết do ảnh hưởng của nền văn hóa bản địa, thêm vào đó là sự ảnh hưởng của lễ giáo phong kiến và tư tưởng Nho giáo du nhập từ Trung Hoa. Tư tưởng Nho giáo, cùng với âm mưu đồng hóa của người Trung Hoa, đã ảnh hưởng khá sâu sắc đến hệ tư tưởng của người Việt, đặc biệt là những người thuộc tầng lớp trên của xã hội. Riêng đối với quần chúng lao động, thì sự tác động này có phần hạn chế, do những đặc thù trong không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng mà cụ thể ở đây là không gian văn hóa làng xã. Đối diện với hôn nhân, người Việt xưa có nhiều cách ứng xử khác nhau, song tựu trung, chúng ta có thể tạm chia ra làm ba nhóm : sự tự do chọn lựa đối tượng để đi đến hôn nhân, sự sắp đặt từ phía cha mẹ và sự ảnh hưởng từ phía cộng đồng.
Về tự do trong hôn nhân, nam nữ yêu nhau hầu hết đều ước mong hướng đến việc kết hôn để có một gia đình hạnh phúc : “Ước gì ăn ở một nhà. Ra đụng vào chạm kẻo mà nhớ thương” hay “Kết đôi cho thành vợ chồng. Kẻo mà đêm tưởng ngày trông nhau hoài”. Họ tự do yêu nhau đồng thời cũng tự mình quyết định đối tượng hôn nhân song không phải là sự lựa chọn tùy tiện bởi đây là việc hệ trọng của cả một đời người.
“Con chim, con chóc đậu nóc nhà quan
Trai khôn tìm vợ, gái ngoan tìm chồng
Trai khôn tìm vợ chợ đông
Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân”
Khôn ngoan trong việc lựa chọn đối tượng hôn nhân có nhiều tiêu chí, trước hết đó là sự phù hợp gia cảnh giữa đôi bên “giàu tìm giàu làm bạn, khó tìm khó kết duyên”. Gia cảnh chênh lệch, giàu – nghèo, sang – hèn thì cuộc sống hôn nhân khó mà giao hòa, hạnh phúc. Hai người cùng một hoành cảnh, tầng lớp tưởng chừng như sẽ khó hòa hợp song lại dễ dàng thấu hiểu để sẻ chia những khó khăn trong cuộc sống. Chính vì vậy, trong khía cạnh ứng xử này, tục ngữ khuyên “nồi nào vung nấy” hay “ngoàm nào đố nấy”. Trong ca dao cũng có câu thể hiện sự vui vẻ hạnh phúc khi người con gái gặp được người con trai có gia cảnh giống mình :
“Rủi mô rủi lại gặp may
Em con nhà trưa ruộng, gặp tay anh lực điền”
Kén chọn đối tượng hôn nhân còn liên quan đến vấn đề dòng giống. Khi kết hôn, ngoài mong muốn sống chung trọn đời thì một mục đích khác khá quan trọng đó là tạo ra thế hệ con cái về sau. Chính vì vậy, họ mong muốn thế hệ con cái được thừa hưởng những di truyền tốt nhất về gen sinh học (giống) và gen văn hóa (tông). Tục ngữ khuyên “lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”, “mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi”, “mua heo chọn nái, mua gái chọn dòng” hay “mua thịt thì chọn miếng mông. Lấy chồng thì chọn con tông nhà nòi”.
Khi xét thấy đối tượng đã có phần “nền” phù hợp, người nam hoặc người nữ mới tiến đến “quan sát” kĩ hơn với những tiêu chí cụ thể hơn. Đối với đàn ông, tục ngữ khuyên “lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng nam”. Có thể hiểu “hiền hòa” ở đây bao hàm nhiều tiêu chí :
- Đảm đang, khéo léo “Những người thắt đáy lưng ong. Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con
- Xinh đẹp “Những người con mắt lá răm.Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền
- Giỏi nội trợ “Xem bếp biết đàn bà
- Ý tứ, tế nhị “Đàn ông cười hoa, đàn bà cười nụ
- Biết chăn nuôi “Đàn bà không biết nuôi heo đàn bà nhác
- Biết quản lý, vun vén gia đình “Đàn ông như giỏ, đàn bà như hom
Đối với người phụ nữ, họ cũng đặt ra những tiêu chí chọn lựa đối tượng hôn nhân của mình. Họ không đặt nặng vấn đề ngoại hình “ xấu mặt dễ sai, đẹp trai khó khiến”, “củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ sai” mà họ thường mong muốn được kết hôn với những người tháo vát, giỏi việc làng, việc nước “đàn ông như con dao pha”, “ăn đua cho đáng ăn đua. Lấy chồng cho đáng việc vua việc làng”.
Trên đây là những hình mẫu lý tưởng cho người nam và người nữ lựa chọn đối tượng hôn nhân. Việc cân nhắc kĩ lưỡng là cần thiết, tuy nhiên ông cha ta vẫn không quên nhắc nhở rằng “già kén kẹn hom”, “già lựa nhỡ lứa”, “ngày lắm mối, tối nằm không”. Sự chừng mực luôn luôn được người xưa coi trọng, phải luôn luôn “một vừa hai phải ai ơi” để có thể dung hòa mọi thứ về trạng thái ổn định.
Tiêu chí hôn nhân một vợ một chồng cũng được người xưa chú trọng, đặc biệt là nữ giới, mặc dù trong thời điểm đó đàn ông năm thê bảy thiếp vẫn được chấp nhận. Họ phủ nhận hôn nhân đa thê, họ từ chối cảnh làm vợ lẽ vì nó đi ngược lại bản chất hạnh phúc của hôn nhân :
-“Ra đi mẹ đã dặn con
Chính thê thì lấy, hầu non thì đừng”
-“Rượu ngon chẳng quản chén, chai
Tội gì làm mọn cho ai dày bừa”
-“Thiếu chi rau mà ăn rau é,
Thiếu chi người mà làm vợ bé cho anh”
Hay thậm chí “Chết trẻ còn hơn lấy lẽ chồng người”. Thái độ cự tuyệt này không phải tự nhiên mà có. Người phụ nữ thường phải chịu cảnh hẩm hiu và phân biệt đối xử khi làm vợ lẽ “làm lẽ ăn bát mẻ, nằm chiếu manh”. Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương cũng từng cay đắng thừa nhận “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung. Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng. Năm thì mười họa hay chăng chớ. Một tháng đôi lần có cũng không”.
Bên cạnh quan niệm trai gái có quyền chọn lựa và quyết định đối tượng hôn nhân, trường hợp cha mẹ tự sắp đặt và định đoạt vẫn xảy ra, đặc biệt là ở tầng lớp trên của xã hội, thành phần chịu nhiều ảnh hưởng quan niệm “Tại gia tòng phụ” của Nho giáo. Sự áp đặt này xuất phát từ ý muốn chủ quan của cha mẹ mong con mình được kết hôn với đối tượng có vị thế xã hội tốt, giàu có, danh tiếng hoặc đôi khi đơn giản chỉ là vì đối tượng đó “vừa mắt” họ. Câu tục ngữ “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã cho chúng ta thấy rõ đối tượng kết hôn ở trong thế bị động và tất nhiên yếu tố tình yêu cá nhân đã không được quan tâm đến ở đây. Trong xã hội các nước Á Đông nói chung và VIệt Nam nói riêng, khi nam nữ tiến đến hôn nhân, ngoài hạnh phúc cá nhân của riêng hai người, dường như sau lưng họ là cả một hệ thống gia đình, bà con, họ hàng với vô vàn những mối quan hệ và tác động đến cuộc hôn nhân này. Bóng dáng của cha mẹ thường xuất hiện trong những câu ca dao giãi bày việc hôn nhân với đối tượng theo phong cách nghi vấn, “không dám cả đoan”.
-“Anh ơi, anh têm miếng trầu cho thân cho thiết
Bỏ vô hộp thiếc khay cẩn xà cừ
Mượn người ăn nói tương tư
Vô thưa thầy với mẹ có ừ hay không?”
-“Chuyện này em không dám cả đoan
Chờ hai thân phụ thiếp với chàng phân phô”
Người con trai cũng bày tỏ sự e ngại của mình với lối nghi vấn tương tự :
-“Em về thưa với thầy se sẽ
Bẩm với mẹ cho thông
Để anh vô kết nghĩa vợ chồng được không?”
-“Anh mong qua lại bên nhà
Không biết thầy với mẹ có thuận hòa hay không?”
-“Anh ngó lên trăng khuyết lưỡi liềm
Muốn gá duyên chồng vợ mà sợ nỗi niềm mẹ cha”
Mặc dù “nỗi niềm mẹ cha” là một rào cản rất lớn của tình yêu đôi lứa, song đôi khi vì quá thương nhau nên trai gái thời kì đó vẫn có những kiểu “nổi loạn” để đến được với nhau :
-“Anh về em cũng về theo
Mẹ anh đóng cửa, em leo cột nhà”
-“Ví dầu cha đánh, mẹ treo
Đứt dây té xuống, em theo đến cùng
Dẫu mà đan rọ thả sông
Trôi lên trôi xuống, em vẫn không bỏ chàng”
Có thể thấy, hiện tượng áp đặt, ép duyên vẫn thường diễn ra trong xã hội người Việt ngày trước. Tuy nhiên, hiện tượng này không được cổ súy bởi số đông. Có rất nhiều những câu ca dao, tục ngữ phê phán hiện tượng ép duyên, khuyên con người nên lựa chọn đối tượng hôn nhân dựa trên tình cảm chân thật.
-“Ép dầu, ép mỡ, ai nỡ ép duyên”
-“Trái duyên khôn ép”
-“Giàu trong làng trái duyên khôn ép,
Khổ nước người phải kiếp cũng theo.”
-“Phải duyên thì dính như keo,
Trái duyên chống chếnh như kèo đục vênh”
 Có lẽ đây mới là quan điểm chủ đạo, phù hợp với lối sống coi trọng tình cảm của quần chúng lao động nghèo khổ. Vì vậy, việc ép duyên là lối ứng xử có tồn tại trong xã hội nhưng nó không được coi là thước đo giá trị đạo đức mà là một hiện tượng cần lên án. Tư tưởng Nho giáo có thể ảnh hưởng đến ứng xử trong hôn nhân, song nó không bắt rễ sâu được vào tư tưởng của những người lao động chất phát . Người xưa vẫn nhắc nhở nhau đừng tham giàu sang mà có những quyết định sai lầm :
-“Mâm vàng bỏ nải chuối tàu
Vừa đôi thì lấy ham giàu làm chi.”
-“Lấy chồng xem trước ngó sau
Chớ thấy nương rộng nhiều cau mà mừng.”
-“Ham giàu đã thấy giàu chưa
Vừa ăn vừa khóc như mưa tháng mười.”
Và tình nghĩa luôn luôn được đặt lên vị trí cao hơn những giàu sang, danh lợi :
“Tình thương quán cũng là nhà,
Lều tranh có nghĩa hơn tòa ngói cao.”
“Nghèo nhân, nghèo nghĩa thì lo
Nghèo tiền, nghèo của chưa cho là nghèo.”
Ngoài yếu tố từ phía gia đình, những ứng xử với hôn nhân của người Việt còn chịu sự tác động không nhỏ từ phía cộng đồng làng xã. Suy cho cùng, để xem xét một phong tục, tập quán hay hiện tượng văn hóa ta phải đặt nó trong một không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng nhất định mà cụ thể trong trường hợp này là không gian văn hóa làng xã. Friedrich Engels từng nhận định bản chất của làng xã là “một sự cố kết có tính chất địa phương”, nó hình thành nên “tâm lý làng”, “giá trị làng”. Chính điều này đã ảnh hướng đến sự lựa chọn đối tượng hôn nhân của những con người sống trong cộng đồng nhỏ đó. Từ cả hai phía nam và nữ, họ đều có tâm lý muốn kết hôn với những người cùng làng.
-“Ruộng đầu chợ, vợ giữa làng”
-“Tậu ruộng giữa đồng, lấy chồng giữa làng”
-“Lấy chồng khó giữa làng,
Hơn lấy chồng sang thiên hạ”
Và có những trường hợp các bậc cha mẹ chối từ, ngăn cấm cũng vì cách trở không gian :
-“Em thưa với thầy thì thầy mắng
Em thưa với mẹ thì mẹ la
Trai làng thì kết, khách đàng xa thì đừng.”
-“Có con mà gả chồng xa,
Cũng như con cọp bắt tha trong lùm.
Có con mà gả trong làng.
Cũng bằng hụ (hũ) vàng chôn ở trong cươi (sân).”
Tiêu chuẩn lấy người cùng làng này phản ánh rõ tâm lý của người nông dân, sống đời này qua đời khác sau lũy tre làng với nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp. Họ rất sợ phải chịu thân phận người ngụ cư, bơ vơ nơi đất khách quê người dù nơi đó chỉ cách làng có mấy quãng đồng : “Thật thì cũng làng trên chạ dưới trong hàng huyện, chẳng xa mấy. Đứng gốc cây đề ngoài cổng đồng trông qua bờ đìa, mờ mờ trong lùm cây muỗm cổ thụ nhô lên hai cái cột trụ tam quan đình, những hôm quang trời, bên này cũng thấy được lằn đê chắn ngang tầm mắt. Thế mà ngỡ như đám mây trắng mùa hạ lững thững mãi mới sang đến bên ấy. Nghĩ ra thì là cách trở, cả đời cô Vải cứ tưởng như thế.” (Lấy chồng khác làng – Tô Hoài). Tâm lý phân biệt “dân chính cư – dân ngụ cư” ấy dường như là một phương tiện hành chính để củng cố, duy trì sự ổn định của làng xã nhưng đôi khi, xét trên khía cạnh tiêu cực, nó trở nên quá cực đoan, bảo thủ. Ngoài ra, tâm lý này còn xuất phát từ sự gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn của người Việt. Bản thân họ dù có hạnh phúc ở xứ người vẫn luôn đau đáu hướng về “quê cha đất tổ”, vẫn “cọp chết ba năm quay đầu về núi”. Người con gái trước khi ra đi để về nhà chồng thì đã bắt đầu nhớ thương quay quắt “Ra đi ngó trước ngó sau. Ngó nhà mấy cột, ngó cau mấy buồng”. Những thứ tưởng như rất đỗi bình thường đã trở thành nỗi nhớ níu chân người, trở thành một chất keo gắn kết họ chặt chẽ với mảnh đất mà họ sinh ra, trở thành một nỗi ám ảnh khôn nguôi nơi đất khách.
Nếu như tâm lý lấy người cùng làng được hình thành để củng cố sự ổn định của làng thì tục nộp cheo có thể xem như một cách thức để củng cố sự ổn định đó trên phương diện kinh tế. Trong tục lệ hôn nhân của người Việt xưa, nộp cheo là một nghi thức không thể thiếu trong việc cưới xin của trai gái. Nếu thiếu nghi thức này thì không thể thành vợ thành chồng. Có thể hiểu nôm na nộp cheo như một hình thức công bố mối quan hệ giữa hai người với làng xã để được cộng đồng thừa nhận. Tục ngữ, ca dao có nhiều câu thừa nhận sự quan trọng của tục lệ này trong hôn nhân :
-“Cưới vợ không cheo như kèo không mấu.”
-“Cưới vợ không cheo, tiền gieo xuống bể.”
-“Cưới vợ không cheo, mười heo cũng mất.”
-“Nuôi lợn thì phải vớt bèo,
Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng.”
Định nghĩa tục nộp cheo, Phan Kế Bính đã nói rõ như sau “Người trong làng lấy nhau thì nộp độ một vài đồng bạc, gọi là cheo nội, người ngoài làng lấy gái làng thì bao giờ cũng phải nộp nặng hơn, hoặc năm sáu đồng hoặc mười đồng hoặc một vài chục, tùy tục riêng của từng làng, gọi là cheo ngoại. Có nơi không lấy tiền, bắt nộp bằng gạch bát tràng, hoặc nơi thì bắt nộp bằng mâm đồng, bát sứ, tùy làng cần dùng thức gì thì nộp thức ấy chớ không nộp tiền, nhưng chiếu giá tiền thì cũng tương đương nhau. Ngoài lệ cheo làng, lại có cheo hàng xóm, cheo bản tộc, cheo bản thôn, hoặc năm ba tiền kẽm hoặc một vài quan hay một hai đồng bạc…Hễ có cheo rồi mới thành gia thất. Cheo tức là ý phân bua với làng nước. Lấy nhau đã có cưới cheo là sự hôn thú phân minh, về sau vợ chồng có điều gì không dễ mà ly dỵ được nhau và người ngoài cũng không có phép mà tranh cạnh được nữa” [3]. Có thể nói tục nộp cheo đã trở thành một nét văn hóa đặc trưng của làng, thậm chí được đưa vào hương ước của từng làng. Xét về mặt tích cực, việc nộp cheo ngày cưới có thể xem như một hình thức đóng góp để xây dựng cuộc sống cộng đồng ngày một tốt hơn (như đóng thuế nhà nước trong thời đại ngày nay chăng?). Chẳng hạn như số gạch bát tràng được dùng để lót đường cho những ngày gió mưa khỏi lầy lội, các vật phẩm như mâm đồng, bát sứ để dành sử dụng cho những phương việc chung của làng, thể hiện tính dân chủ, mặc dù chỉ dừng lại ở tính dân chủ làng xã sơ khai.
Tuy nhiên, mặt tiêu cực của tục lệ nộp cheo xuất hiện khi ý thức dân chủ, cộng đồng  không còn nữa mà thay vào đó là sự nhũng nhiễu của các vị hương lý trong làng. Với tâm lý “Phép vua thua lệ làng”, những vị chức sắc này đã tự đưa ra những điều khoản trong hương ước nhằm trục lợi và bắt chẹt những đối tượng muốn tiến tới hôn nhân. Ca dao đã phản ánh tâm lý “vui vẻ” của các vị này khi bắt cheo một cách hóm hỉnh :
“Ông xã đánh trống thình thình
Quan viên mũ áo ra đình ăn cheo.”
Sự nhũng nhiễu này đã trở thành một tác nhân cản trở hạnh phúc hôn nhân của người nông dân, đặc biệt là người nông dân nghèo. Đây cũng là một trong những nguyên nhân tại sao người con trai ngại cưới con gái khác làng, nếu như họ không đủ khả năng trả mức tiền cheo ngoại quá nặng. Sự nhũng nhiễu đó đã khiến triều đình phong kiến phải đưa ra những quy định chung về tiền cheo để duy trì sự ổn định. Năm đầu niên hiệu Cảnh Trị (1663), vua Lê Huyền Tông phải nhắc nhở trong 47 điều giáo hóa của mình rằng "Quan viên và binh lính ở xã thôn nhà gái không được viện cớ người ta lấy chồng làng khác mà đòi tiền cheo quá lạm"; còn đến năm Gia Long thứ ba (1804) thì định lệ "về tiền cheo thì nhà giàu phải nạp mặt quan năm tiền, nhà bậc trung nạp sáu tiền, nhà nghèo nạp ba tiền. Nếu lấy người làng khác thì phải nộp gấp đôi". [4]
Nếu như lệ nộp cheo vẫn giữ được những ý nghĩa ban đầu thì thực sự nó sẽ là một nét đặc trưng văn hóa khá đẹp. Nó như một sự gắn kết giữa cá nhân với cộng đồng, như một hình thức đảm bảo cho cuộc hôn nhân (khi chưa có luật hôn nhân như bây giờ), như một mối quan hệ có tính hỗ tương trong phạm vi cộng đồng làng xã.
4. Một vài nhận định
Qua phân tích những ứng xử với hôn nhân của người Việt thông qua ca dao, tục ngữ, chúng ta nhận thấy những nét đặc trưng văn hóa thú vị của cộng đồng người Việt xưa.
Thứ nhất, mặc dù Nho giáo đóng vai trò là tư tưởng chủ đạo của chế độ phong kiến trong nhiều thế kỷ, song nó lại không bắt rể sâu vào tư tưởng của quần chúng lao động, hay chí ít là trong tư tưởng hôn nhân. Những mối quan hệ gắn bó, coi trọng tình nghĩa, sự bình đẳng trong ca dao, tục ngữ đã chứng minh điều đó. Có thể thấy rằng, những hình ảnh gần gũi, chất phát, chan chứa yêu thương như “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.” hay “Râu tôm nấu với ruột bầu. Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon.” rất khác xa với tính chất gia trưởng của gia đình Nho giáo, trong đó vai trò của người phụ nữ dường như lệ thuộc và thụ động. Điều này có thể được lý giải nếu chúng ta tìm về bối cảnh thâm nhập vào Việt Nam của Nho giáo. Nho giáo thâm nhập vào Việt Nam với âm mưu đồng hóa của người Trung Hoa, trong bối cảnh xã hội Việt Nam có nhiều điểm khác biệt, trong đó quan trọng nhất là tính tự trị của làng xã Việt Nam. Có thể nói, tính tự trị của làng xã Việt Nam đã trở thành một thành trì bảo vệ vững chắc khiến Nho giáo không thể ăn sâu vào những nét văn hóa bản địa của cộng đồng người Việt. Mọi yếu tố về địa vực, dân cư, phong tục, tập quán… của làng xã Việt Nam đều mang nặng tính cục bộ, bản vị. “Sự đan xen nghề nghiệp; nông, công, thương và mối quan hệ đa dạng phường hội, họ hàng, xóm, giáp; sự dung hợp các hệ tư tưởng và tôn giáo… đã tạo cho làng cổ truyền một cơ sở vững chắc. Mỗi cá nhân đồng thời là thành viên của nhiều tổ chức, phe giáp, và là thành viên của cộng đồng làng, là bộ phận hữu cơ luôn gắn bó chặt chẽ với tổ chức làng.” [5]. Chính sự liên kết chặt chẽ này đã tạo thành nội lực để làng xã Việt Nam chống lại mọi sự thâm nhập từ bên ngoài. Như vậy, tính tự trị của làng xã Việt Nam đã góp phần giữ vững những nét văn hóa đặc trưng của cộng đồng người Việt, chống lại sự đồng hóa qua 1000 năm Bắc thuộc.
Thứ hai, chính yếu tố tự trị của làng xã Việt Nam đã có những tác động tiêu cực đến những cá nhân, những yếu tố văn hóa hàm chưa bên trong nó mà hôn nhân không phải là một ngoại lệ. Tính tự trị đã tạo nên “tâm lý làng”, “giá trị làng”, tính “cục bộ địa phương” và vô hình trung đã tạo nên một rào cản đối với sự giao lưu văn hóa. Điều này cũng đã ngăn cản rất nhiều cuộc hôn nhân giữa những người khác làng, tạo ra tâm lý “bảo vệ gái làng” mà đến bây giờ vẫn tồn tại ở một số vùng quê. Nó cũng khiến cho làng xã rời xa quỹ đạo quản lý của chính quyền trung ương với tâm lý “phép vua thua lệ làng”, tạo điều kiện cho cấp quản lý địa phương nhũng nhiễu quần chúng nhân dân mà sự biến tướng của tục nộp cheo là một minh chứng sinh động. Như vậy, tính tự trị đã góp phần bảo lưu những giá trị văn hóa tốt đẹp, song bên cạnh đó nó cũng duy trì những hủ tục khó xóa bỏ.
Tóm lại, qua việc phân tích những ứng xử của người Việt trong ca dao, tục ngữ, ta nhận ra được những nét bản sắc văn hóa thú vị của người Việt. Mặc dù vẫn tồn tại những yếu tố tiêu cực, song tựu trung, ta vẫn thấy nổi bật lên là tâm lý lựa chọn đối tượng hôn nhân dựa trên nền tản đạo đức, tình cảm chân thật, sự bình đẳng, trọng nghĩa tình, hướng đến sự thuận hòa trong ấm ngoài êm. Đó cần phải được xem như là những tinh hoa xử thế, những đạo lý sống mà chúng ta phải bảo lưu và gìn giữ.
_____________________________________________________________________
[1] Ngô Đức Thịnh : Văn hóa dân gian với đời sống xã hội, Tạp chí văn học dân gian
[2] Phan Mậu Cảnh : Đặc trưng văn hóa, cội nguồn văn hóa và sự thể hiện chúng trong ca dao người Việt
[3] Phan Kế Bính : Việt Nam phong tục, NXB Đồng Tháp, 1990, tr.180-181
[4] Trần Ngọc Thêm : Cơ sở văn hóa Việt Nam, TP.HCM, 1996
[5] Tính tự trị của làng xã Việt nam trong lịch sử (http://ohdear.vn/?name=tintuc&file=newsdetail&id=7781)

Thứ Ba, 21 tháng 8, 2012

TÂY ĐI XE ĐẠP - CHRISTINE BUCKLEY

Xe đạp là phương tiện vận chuyển văn minh nhất mà con người biết được. Những dạng chuyên chở khác ngày càng trở nên ác mộng hơn. Chỉ còn xe đạp là trong tâm còn thuần khiết.

(Iris Murdoch, Đỏ và Xanh)


Bạn hãy nhắm mắt lại và gọi lên một hình ảnh hoặc một ấn tượng cảm quan duy nhất chụp bắt được cái tinh tuý về Việt Nam của bạn. Thứ bức tranh mà bạn gợi ra cho chính mình khi bạn ở xa và nhức nhối nỗi nhớ nhà.
Cái gì đến với tâm trí bạn? phải chăng là một tô phở toả hơi, một thửa ruộng lúa xanh rờn sau cơn mưa bão, một cánh đồng hoa dại ở Đà Lạt, hay tiếng rao thân quen của người bán hàng dạo trên đường phố? Có ai hình dung ra bóng dáng một cô nữ sinh thong thả đạp xe, tóc buông xoã lưng phủ chiếc áo dài trắng không vương chút âu lo trên đời?
Có chi xẩy ra được với cô gái đó và cái thế giới thung dung mà cô trú ngụ?
Tôi đã sống ở Việt Nam gần được hai năm. Tôi có thể nói được tiếng Việt và đã hội nhập vào cái xã hội này trong mức độ của một cô gái da trắng. Nhưng thú tiêu khiển ưa chuộng nhất của tôi đã làm vướng lối sự hoà đồng kia. Ngay chính sự tồn tại của nó cũng bị lâm nguy vì những thái độ và giá trị đổi thay cấp tốc trong một thành phố Sài Gòn đang đổi mới bằng mọi giá.
Tôi lớn lên trong một đô thị, chưa từng có một chiếc xe hơi, và đã luôn luôn chọn xe đạp làm phương tiện vận chuyển chính yếu trong mọi thành phố tôi đã gọi là nhà mình cho đến nay: New York, Sydney, Paris. Vậy nên tôi đã nghĩ Sài Gòn cũng chẳng có gì khác khi tôi di chuyển từ đồng bằng sông Cửu Long lên đây hơn một năm về trước. Vậy mà từ đó đến nay tôi đã bị chế giễu, quấy nhiễu, la ó, và nhiếc móc chỉ vì dấn thân vào thứ hoạt động không đe doạ, không ô nhiễm này của mình.
Nếu bạn ngạc nhiên thì tôi xin giãi bày: tôi biết luật lệ giao thông của xứ sở này, và tôi tuân thủ chúng. Tôi tránh lối của xe vận tải và chưa từng ngưng giữa đường phố Lê Lợi khi có đèn xanh để trả lời điện thoại di động. Tôi tránh không cắt ngang luồng xe cộ đang chạy tới và không đi trái ngược đường dù chỉ để tới mục tiêu sớm được ba giây đồng hồ. Tôi ngừng lại khi có đèn đỏ, ngó cả hai chiều trước khi nhập vào đường lộ và ra hiệu khi sắp sửa quẹo. Và như thế, tôi bị rầy la và thù ghét -- chỉ cùng lắm là được tha thứ -- bởi chính những người niềm nở đón chào tôi tại văn phòng, bàn ăn, và đình chùa của họ. Cung cách người dân Sài Gòn xử sự trên đường lộ thì hầu như không thể hoà giải với phong độ gương mẫu của họ trong gần như mọi mặt sinh hoạt khác.

"U buồn thì không thích hợp với việc đạp xe."
James E. Starrs, Người đạp xe có văn học

Tuần lễ vừa qua tôi cố tìm cách đậu xe đạp của mình trong khoảng bên ngoài toà nhà Diamond Plaza, nơi tôi tính viếng thăm một người bạn trong văn phòng của bà ta. Tôi đưa xe lên khỏi lòng đường, mỉm cười và hỏi bằng tiếng Việt xem phải để xe đạp ở đâu. Người quản lí bãi đậu xe, bận rộn đếm xấp tiền, chẳng bận ngó lên nhưng cũng gượng nhếch mép khi thấy chiếc xe đạp. Bà giơ tay phác một cử chỉ, có thể là chỉ về phía sau bãi đậu xe hoặc là xua tôi đi.
Tôi ngoan ngoãn theo lối về "khu thua thiệt", tức góc xa nhất của bãi đậu dành cho mọi thứ xe cộ rẻ tiền. Mọi quán ăn, quán càfê hào nhoáng, và trong trường hợp này là bãi đậu đều có một khu vực như thế. Nếu bạn diện một điện thoại cầm tay trị giá 1.000 đô và một xe gắn máy 10.000 đô, một tiếp viên sẽ mỉm cười đón xe của bạn và dành cho nó một chỗ kiêu hãnh ở phía trước; như thế bạn tha hồ phô trương và không phải đi xa. Còn đám chẳng ra gì như tôi thì phải tự tìm lối mà đi.
Khi để xe xong, tôi hỏi phiếu giữ xe, và được người ta nhăn mặt bảo cho biết rằng không hề có phiếu cho xe đạp, khiến bọn nhân viên bao quanh cười rộ lên, bấy giờ họ đã tụ tập lại để ngó chòng chọc vào con người nước ngoài lắm chuyện. Người giữ tiền ở quầy nói: 'Chúng tôi không tính tiền gửi xe đạp của bà. Vậy thì đưa bà phiếu giữ xe làm gì?' Tôi mỉm cười và nói tôi sẵn sàng trả tiền giữ xe, nhưng có một giấy biên nhận nào đó -- bất kể loại gì -- dù chỉ một mẩu giấy, cũng là tốt. Tôi chỉ một tấm bảng có ghi: 'Giữ xe đạp: 1.000VNĐ.'. Bà ta trả lời cụt ngủn: 'Cái đó xưa rồi.'
Đã trễ và không còn lựa chọn nào khác, tôi lủi đi, không có phiếu giữ xe và bối rối. Một tiếp viên nam châm chọc hỏi khi tôi đi ngang: 'Thế sao bà không sắm một xe gắn máy cho rồi.' Câu hỏi vang vang tôi nghe được cả chục lần mỗi ngày.
Cũng tiến trình ấy lặp lại khắp thành phố trong những tháng qua, nhất là ở những địa điểm nóng thuộc Quận 1, nơi các thân chủ hấu hết chuyên xuất hiện với những xe gắn máy cao cấp, và ngày càng tăng là xe hơi. Nếu tôi có năng lực giải thích khó khăn của mình và liên kết được với giới tiếp viên ỡ bãi đậu xe, thường khi tôi có thể thuyết phục họ giữ xe đạp của tôi, nhưng mỗi lần việc dàn xếp là một sự vụ hàm hồ và đòi hỏi một liều lượng kha khá về tương tín. Họ phá lề luật khi cho phép tôi đậu xe trong bãi của họ, và tôi phải tin tưởng là họ sẽ 'nhớ mặt' tôi khi tôi trở ra. Tiến trình can hệ nhiều đối đáp thông minh và khoảng chừng hai chục câu hỏi từ phía những tiếp viên trẻ thiện chí. Cho đến nay, sự việc suôn sẻ. Trừ một điều là lề thói này ngày càng trở nên chán ngắt.

"Mỗi lần tôi thấy một người lớn ngồi trên xe đạp là tôi không còn tuyệt vọng về tương lai của loài người".
H. G. Wells

Trong tuần này có hai lần tôi là chủ để của sự xoi mói hơn mức bình thường của những người cùng đi xe đạp như tôi khi ngừng lúc đèn đỏ. Người nam thứ nhất nói với bạn bằng tiếng Việt: 'Xem kia bà Tây đi xe đạp'. Anh bạn kia ngó tôi, hừ một tiếng nhạo, rồi quay về phía tôi mỉm cười ngọt ngào cất cao giọng nói: 'Hello?', như thể đó là một câu hỏi. Câu đáp lại thầm lặng của tôi là: 'Vâng, ngó tôi đi. Người Tây. Tôi đang đi xe đạp đó. Thú vị nhỉ!' Tôi chỉ chớp chớp mau mi mắt với họ, gây ra những tiếng cười phá lên trong đám khán giả chung quanh cùng ngừng xe.

Cuộc hội ngộ thứ nhì mang tính bạo hành hơn. Một anh chàng trên một chiếc xe gắn máy  Yamaha kiểu mới bóng nhoáng hí như ngựa khi anh ta vừa rú còi vừa đuổi theo tôi xuôi đường Điện Biên Phủ, liều mạng lách ra chen vào giữa luồng xe cộ giờ cao điểm, và cười như phá suốt dọc đường. Tới chỗ ngừng vì đèn đỏ, anh bắt đầu giải thích cho cô bạn gái ngồi sau bằng giọng sành sỏi là: hầu hết người nước ngoài không biết chạy xe gắn máy, nên họ luôn luôn chỉ đi bộ hoặc cưỡi xe đạp.
Điều này khiến tôi chịu hết nổi và tôi trả lời bằng tiếng Việt là: phải, đúng thế, tôi biết cách lái xe gắn máy, và chắc lái còn giỏi hơn anh ta nhiều. Tôi nói tôi chọn việc đi xe đạp chỉ đơn giản bởi vì tôi thích đạp xe. Như thế anh ta nghe được không? Dĩ nhiên, như thế là không được. Khi chúng tôi tiếp tục chạy, anh ta lên giọng kẻ cả dạy đời bồi thêm. 'Đi xe đạp là xấu. Nhất là với một phụ nữ. Đây là Việt Nam. Ở đây cô phải cưỡi xe gắn máy nếu muốn giống như chúng tôi.'
Tôi chịu hết nổi người đàn ông gây khó chịu này và những thành kiến của anh ta. Tôi phóng ra đòn từ giã bằng tiếng Anh, là thứ tiếng cho phép tôi phong phú hơn về từ ngữ: 'Thưa ông, cám ơn ông đã quan tâm về sự an lạc của tôi. Tôi không biết rằng cưỡi xe đạp là đi ngược lại quy luật của xứ sở này. Tôi hi vọng sẽ không có sự phạt vạ nào cho tội hình sự của tôi.' Nói xong tôi chào anh ta và đội ngột rẽ vào đường Đinh Tiên Hoàng, để mặc cho anh ta bị nuốt chửng trong đà cuốn đẩy về phía trước trên đường Điện Biên Phủ.

"Khi con người phát minh ra xe đạp, y đã đạt tới đỉnh thành tựu… Ở đây, ít nhất có một lần, là một sản phẩm của đầu óc con người hoàn toàn ơn ích cho những ai sử dụng nó, và không hề có tai hại hoặc phiền hà cho kẻ khác. Sự tiến bộ lẽ ra phải ngừng lại khi con người đã phát minh ra xe đạp."
Elizabeth West, Mái tranh trên đồi

Chỉ một thập niên trước đây, trên các con đường Việt Nam chỉ có xe đạp và chẳng có mấy thứ xe cộ khác. Cùng với sự thịnh vượng, xe gắn máy đã thịnh hành ở đây, làm nghẽn những lá phổi của chúng ta và những phố hai bên đường có trồng cây, dẫn tới một trong những tử suất cao nhất trên thế giới về tai nạn giao thông trên đường. Và sự tiến bộ cứ cuốn đi. Ngay khi xứ sở này gia nhập Tổ chức Mậu dịch Thế giới (World Trade Organization, gọi tắt là WTO), những thuế suất ngất ngưởng đánh vào xe hơi sẽ biến mất, và nhiều người sẽ có thể sắm xe hơi. Xã hội lúc đó liệu sẽ có khinh khỉnh trông xuống những người đi xe gắn máy như những kẻ đi xe gắn máy ngày nay dè bỉu những người đi xe đạp chăng?
Tôi không muốn từ khước chỗ ngồi của nhân dân Việt Nam tại bàn tiệc, quyền của họ tiếp cận với kĩ thuật học và những hàng hoá tiêu dùng tối tân nhất mà những nước phát triển hàng bao thế hệ đã coi là đương nhiên. Tuy nhiên tim tôi thót lại mỗi lần đi ngang qua một cô gái quê gương mặt thuần hậu ngồi trên một xe đạp ọp ẹp chở đầy trái cây cố gắng lách lối không được giữa bao xe hơi Lexus bực bội và bao xe gắn máy Honda rú còi. Còn được bao lâu nữa trước khi chúng ta sống trong cảnh một Bangkok hoặc một Jakarta khác?
Tối qua tôi đi ăn với một người bạn Việt Nam. Anh ta là một người tự xây dựng sự nghiệp mà sự thành công đã cho phép anh ta đi du lịch khắp nơi. Anh vừa mới từ thủ đô Amsterdam của Hà Lan trở về và thán phục nêu nhận xét về sự kiện là ờ đó gần như mọi người, từ trẻ đến già, đều di chuyển trong thành phố bằng xe đạp. Anh bảo: "Tôi muốn nói là họ thực sự dường như thoái mái. Ngay cả, một chủ tịch công ti cũng đi làm bằng xe đạp.'
Vâng, những người châu Âu khật khùng kia thừa sức sắm xe hơi, nhưng họ đã chọn cách giản dị hoá đời sống hơn là làm nó phức tạp thêm. Giá xăng dầu đang leo thang như tên lửa. Tầng ô-zôn đang thu hẹp lại. Nhưng có thể họ nhẩy lên xe đạp chỉ thuần vì cái thú đạp xe, nghe gió lùa trong mái tóc và để được hít thở không khí trong lành.

Tiến Văn dịch