Hồ Tâm Nguyên
ĐH Kiến Trúc TP.HCM
1.Dẫn
nhập
Hôn nhân là một trong
những sự kiện quan trọng nhất của cuộc đời mỗi con người. Nó là cột mốc đánh dấu
sự gắn kết giữa nam và nữ cả về tinh thần lẫn vật chất, tạo thành một gia đình
riêng, sống độc lập với bố mẹ.
Khái niệm hôn nhân có
nhiều định nghĩa. Theo Wikipedia, hôn
nhân hiểu một cách chung nhất có thể được xác định như sự xếp đặt của mỗi một
xã hội để điều chỉnh mối quan hệ sinh lý giữa nam và nữ. Nó là một hình thức xã
hội luôn luôn thay đổi trong suốt quá trình phát triển của mối quan hệ giữa họ,
nhờ đó xã hội xếp đặt và cho phép họ sống chung với nhau, quy định quyền lợi và
nghĩa vụ của họ. Còn theo Từ điển bách
khoa Việt Nam tập 2, hôn nhân là một thể chế xã hội kèm theo những nghi thức
xác nhận quan hệ tính giao giữa hai hay nhiều người thuộc hai giới tính khác
nhau, được coi là chồng và vợ, quy định mối quan hệ và trách nhiệm giữa họ với
nhau, giữa họ với con cái của họ, sự xác nhận đó trong quá trình phát triển của
xã hội dần dần mang thêm những yếu tố mới.
Từ những định nghĩa
trên, có thể nhận thấy hôn nhân là một nhu cầu xã hội và nó luôn luôn được thừa
nhận dù ở trong bất cứ xã hội nào. Đồng thời, sự biến đổi của hôn nhân qua các
thời kì luôn gắn liền với hình thái xã hội đó, từ buổi đầu ban sơ là chế độ quần
hôn, đến chệ độ mẫu hệ, phụ hệ - đa thê và cuối cùng là chế độ một vợ một chồng
như ngày nay.
Trải qua lịch sử hàng ngàn năm, người Việt xưa đã
đúc kết những kinh nghiệm của mình trong cách ứng xử với hôn nhân thông qua ca
dao, tục ngữ. Thông qua việc phân tích những câu ca dao, tục ngữ này, ta có thể
hiểu thêm được những nét đặc trưng văn hóa của dân tộc – những giá trị tiêu biểu
về tinh thần và vật chất mà dân tộc đã tích lũy được trong quá trình lịch sử Việt
Nam.
2.Cơ
sở tiếp cận
Ca dao, tục ngữ thuộc lĩnh vực văn học dân gian – một
bộ phận quan trọng cấu thành văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian có thể được định
nghĩa là những phong tục, tập quán, ca dao, tục ngữ, chuyện thần thoại…của những
người thời trước [1]. Có thể thấy rằng, văn hóa dân gian có sự ra đời và định
hình gắn liền với lịch sử phát triển lâu đời của dân tộc, khởi nguồn từ xã hội
nguyên thủy. Đó là thời kì văn hóa Đông Sơn gắn liền với sự ra đời của nhà nước
Văn Lang – Âu Lạc, thời kì khởi thủy của lịch sử dân tộc và lịch sử văn hóa Việt
Nam. Chính vì vậy, văn hóa dân gian thường được coi là cội nguồn văn hóa của
dân tộc, văn hóa gốc hay văn hóa mẹ. Bên cạnh sự ra đời và phát triển của văn
hóa bác học hay văn hóa cung đình, văn hóa dân gian vẫn tồn tại và đóng một vai
trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam bởi văn
hóa dân gian gắn liền với những sinh hoạt văn hóa cộng đồng của đại bộ phận người
lao động. Có thể nói văn hóa dân gian là tấm gương phản ánh cuộc sống phong phú
của quần chúng nhân dân. Như vậy, có thể thấy rằng,văn hóa dân gian được coi là
văn hóa gốc bởi lẽ nó mang tính bản địa rất cao. Tất cả những yếu tố này đã khiến
cho văn học dân gian hàm chứa cao những đặc trưng văn hóa của dân tộc.
Trong bất cứ một nền văn hóa nào, ngôn ngữ luôn đóng
một vai trò quan trọng trong việc thể hiện và chuyển giao văn hóa. Đây là một
phương tiện giúp cho văn hóa có thể được truyền từ thế trước sang thế hệ sau,
là cơ sở để lưu giữ, bảo tồn và phát triển tiếp nối. Phương tiện ngôn ngữ được
bổ sung và hoàn thiện dần theo lịch sử phát triển của xã hội, theo những trào
lưu và xu hướng tiếp xúc văn hóa có từ xưa cho đến ngày này. “Toàn bộ các từ trong ngôn ngữ, đó chính là
phương tiện nối kết các hiện tượng bên ngoài với thế giới bên trong của con người…
Đặc biệt, bản sắc riêng của mỗi dân tộc luôn luôn được thể hiện qua tiếng mẹ đẻ
của họ; ngôn ngữ là nơi bảo lưu tinh thần, văn hóa dân tộc, sức mạnh liên minh
giữa các dân tộc- tất cả để lại dấu ấn tài tình trong mỗi âm thanh” (W.
Humbold; 1; tr.203). “Ngôn ngữ đã chứa đựng
trong mình toàn bộ di sản văn hoá của các thế hệ trước, xác định hành vi của những
con người hiện tại, trong một mức độ nào đó, ngôn ngữ còn làm tiền đề cho con
người trong tương lai, có nghĩa chính ngôn ngữ sản sinh và sáng tạo ra con người”
(M. Kheydegger, dẫn theo 1; tr.203).[2]
Như vậy, qua phân tích ở trên, ta thấy rằng việc đi
tìm những ứng xử của người xưa thông qua ca dao, tục ngữ để từ đó hiểu được những
nét đặc trưng văn hóa là có cơ sở khoa học cụ thể.
3.
Những quan niệm về hôn nhân qua ca dao, tục ngữ
Hiện thực đời sống hôn nhân – gia đình của các giai
đoạn trước trong xã hội Việt Nam được phản ánh rất phong phú qua ca dao, tục ngữ.
Sự đa dạng, phong phú trong quan niệm và tục lệ hôn nhân của người Việt trước hết
do ảnh hưởng của nền văn hóa bản địa, thêm vào đó là sự ảnh hưởng của lễ giáo
phong kiến và tư tưởng Nho giáo du nhập từ Trung Hoa. Tư tưởng Nho giáo, cùng với
âm mưu đồng hóa của người Trung Hoa, đã ảnh hưởng khá sâu sắc đến hệ tư tưởng của
người Việt, đặc biệt là những người thuộc tầng lớp trên của xã hội. Riêng đối với
quần chúng lao động, thì sự tác động này có phần hạn chế, do những đặc thù
trong không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng mà cụ thể ở đây là không gian văn
hóa làng xã. Đối diện với hôn nhân, người Việt xưa có nhiều cách ứng xử khác
nhau, song tựu trung, chúng ta có thể tạm chia ra làm ba nhóm : sự tự do chọn lựa
đối tượng để đi đến hôn nhân, sự sắp đặt từ phía cha mẹ và sự ảnh hưởng từ phía
cộng đồng.
Về tự do trong hôn nhân, nam nữ yêu nhau hầu hết đều
ước mong hướng đến việc kết hôn để có một gia đình hạnh phúc : “Ước gì ăn ở một nhà. Ra đụng vào chạm kẻo mà
nhớ thương” hay “Kết đôi cho thành vợ
chồng. Kẻo mà đêm tưởng ngày trông nhau hoài”. Họ tự do yêu nhau đồng thời
cũng tự mình quyết định đối tượng hôn nhân song không phải là sự lựa chọn tùy
tiện bởi đây là việc hệ trọng của cả một đời người.
“Con chim, con
chóc đậu nóc nhà quan
Trai khôn tìm vợ,
gái ngoan tìm chồng
Trai khôn tìm vợ
chợ đông
Gái khôn tìm chồng
giữa chốn ba quân”
Khôn ngoan trong việc lựa chọn đối tượng hôn nhân có
nhiều tiêu chí, trước hết đó là sự phù hợp gia cảnh giữa đôi bên “giàu tìm giàu làm bạn, khó tìm khó kết duyên”.
Gia cảnh chênh lệch, giàu – nghèo, sang – hèn thì cuộc sống hôn nhân khó mà
giao hòa, hạnh phúc. Hai người cùng một hoành cảnh, tầng lớp tưởng chừng như sẽ
khó hòa hợp song lại dễ dàng thấu hiểu để sẻ chia những khó khăn trong cuộc sống.
Chính vì vậy, trong khía cạnh ứng xử này, tục ngữ khuyên “nồi nào vung nấy” hay “ngoàm
nào đố nấy”. Trong ca dao cũng có câu thể hiện sự vui vẻ hạnh phúc khi người
con gái gặp được người con trai có gia cảnh giống mình :
“Rủi mô rủi lại
gặp may
Em con nhà trưa
ruộng, gặp tay anh lực điền”
Kén chọn đối tượng hôn nhân còn liên quan đến vấn đề
dòng giống. Khi kết hôn, ngoài mong muốn sống chung trọn đời thì một mục đích
khác khá quan trọng đó là tạo ra thế hệ con cái về sau. Chính vì vậy, họ mong
muốn thế hệ con cái được thừa hưởng những di truyền tốt nhất về gen sinh học
(giống) và gen văn hóa (tông). Tục ngữ khuyên “lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”, “mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi”, “mua heo chọn nái, mua gái chọn dòng” hay “mua thịt thì chọn miếng mông. Lấy chồng thì chọn con tông nhà nòi”.
Khi xét thấy đối tượng đã có phần “nền” phù hợp, người
nam hoặc người nữ mới tiến đến “quan sát” kĩ hơn với những tiêu chí cụ thể hơn.
Đối với đàn ông, tục ngữ khuyên “lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng nam”. Có thể hiểu
“hiền hòa” ở đây bao hàm nhiều tiêu chí :
-
Đảm đang, khéo léo “Những người thắt đáy
lưng ong. Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con”
-
Xinh đẹp “Những người con mắt lá răm.Lông
mày lá liễu đáng trăm quan tiền”
-
Giỏi nội trợ “Xem bếp biết đàn bà”
-
Ý tứ, tế nhị “Đàn ông cười hoa, đàn bà cười
nụ”
-
Biết chăn nuôi “Đàn bà không biết nuôi
heo đàn bà nhác”
-
Biết quản lý, vun vén gia đình “Đàn ông
như giỏ, đàn bà như hom”
Đối với người phụ nữ, họ cũng đặt ra những tiêu chí
chọn lựa đối tượng hôn nhân của mình. Họ không đặt nặng vấn đề ngoại hình “ xấu mặt dễ sai, đẹp trai khó khiến”, “củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ sai” mà họ
thường mong muốn được kết hôn với những người tháo vát, giỏi việc làng, việc nước
“đàn ông như con dao pha”, “ăn đua cho đáng ăn đua. Lấy chồng cho đáng
việc vua việc làng”.
Trên đây là những hình mẫu lý tưởng cho người nam và
người nữ lựa chọn đối tượng hôn nhân. Việc cân nhắc kĩ lưỡng là cần thiết, tuy
nhiên ông cha ta vẫn không quên nhắc nhở rằng “già kén kẹn hom”, “già lựa nhỡ
lứa”, “ngày lắm mối, tối nằm không”.
Sự chừng mực luôn luôn được người xưa coi trọng, phải luôn luôn “một vừa hai phải ai ơi” để có thể dung
hòa mọi thứ về trạng thái ổn định.
Tiêu chí hôn nhân một vợ một chồng cũng được người
xưa chú trọng, đặc biệt là nữ giới, mặc dù trong thời điểm đó đàn ông năm thê bảy
thiếp vẫn được chấp nhận. Họ phủ nhận hôn nhân đa thê, họ từ chối cảnh làm vợ lẽ
vì nó đi ngược lại bản chất hạnh phúc của hôn nhân :
-“Ra đi mẹ đã dặn
con
Chính thê thì lấy,
hầu non thì đừng”
-“Rượu ngon chẳng
quản chén, chai
Tội gì làm mọn
cho ai dày bừa”
-“Thiếu chi rau
mà ăn rau é,
Thiếu chi người
mà làm vợ bé cho anh”
Hay thậm chí “Chết
trẻ còn hơn lấy lẽ chồng người”. Thái độ cự tuyệt này không phải tự nhiên
mà có. Người phụ nữ thường phải chịu cảnh hẩm hiu và phân biệt đối xử khi làm vợ
lẽ “làm lẽ ăn bát mẻ, nằm chiếu manh”.
Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương cũng từng cay đắng thừa nhận “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung. Kẻ đắp
chăn bông, kẻ lạnh lùng. Năm thì mười họa hay chăng chớ. Một tháng đôi lần có
cũng không”.
Bên cạnh quan niệm trai gái có quyền chọn lựa và quyết
định đối tượng hôn nhân, trường hợp cha mẹ tự sắp đặt và định đoạt vẫn xảy ra,
đặc biệt là ở tầng lớp trên của xã hội, thành phần chịu nhiều ảnh hưởng quan niệm
“Tại gia tòng phụ” của Nho giáo. Sự
áp đặt này xuất phát từ ý muốn chủ quan của cha mẹ mong con mình được kết hôn với
đối tượng có vị thế xã hội tốt, giàu có, danh tiếng hoặc đôi khi đơn giản chỉ
là vì đối tượng đó “vừa mắt” họ. Câu tục ngữ “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã cho chúng ta thấy rõ đối tượng kết
hôn ở trong thế bị động và tất nhiên yếu tố tình yêu cá nhân đã không được quan
tâm đến ở đây. Trong xã hội các nước Á Đông nói chung và VIệt Nam nói riêng,
khi nam nữ tiến đến hôn nhân, ngoài hạnh phúc cá nhân của riêng hai người, dường
như sau lưng họ là cả một hệ thống gia đình, bà con, họ hàng với vô vàn những mối
quan hệ và tác động đến cuộc hôn nhân này. Bóng dáng của cha mẹ thường xuất hiện
trong những câu ca dao giãi bày việc hôn nhân với đối tượng theo phong cách
nghi vấn, “không dám cả đoan”.
-“Anh ơi, anh
têm miếng trầu cho thân cho thiết
Bỏ vô hộp thiếc
khay cẩn xà cừ
Mượn người ăn
nói tương tư
Vô thưa thầy với
mẹ có ừ hay không?”
-“Chuyện này em
không dám cả đoan
Chờ hai thân phụ
thiếp với chàng phân phô”
Người con trai cũng bày tỏ sự e ngại của mình với lối
nghi vấn tương tự :
-“Em về thưa với
thầy se sẽ
Bẩm với mẹ cho
thông
Để anh vô kết
nghĩa vợ chồng được không?”
-“Anh mong qua lại
bên nhà
Không biết thầy
với mẹ có thuận hòa hay không?”
-“Anh ngó lên
trăng khuyết lưỡi liềm
Muốn gá duyên chồng
vợ mà sợ nỗi niềm mẹ cha”
Mặc dù “nỗi niềm
mẹ cha” là một rào cản rất lớn của tình yêu đôi lứa, song đôi khi vì quá
thương nhau nên trai gái thời kì đó vẫn có những kiểu “nổi loạn” để đến được với
nhau :
-“Anh về em cũng
về theo
Mẹ anh đóng cửa,
em leo cột nhà”
-“Ví dầu cha
đánh, mẹ treo
Đứt dây té xuống,
em theo đến cùng
Dẫu mà đan rọ thả
sông
Trôi lên trôi xuống,
em vẫn không bỏ chàng”
Có thể thấy, hiện tượng áp đặt, ép duyên vẫn thường
diễn ra trong xã hội người Việt ngày trước. Tuy nhiên, hiện tượng này không được
cổ súy bởi số đông. Có rất nhiều những câu ca dao, tục ngữ phê phán hiện tượng
ép duyên, khuyên con người nên lựa chọn đối tượng hôn nhân dựa trên tình cảm
chân thật.
-“Ép dầu, ép mỡ,
ai nỡ ép duyên”
-“Trái duyên
khôn ép”
-“Giàu trong
làng trái duyên khôn ép,
Khổ nước người
phải kiếp cũng theo.”
-“Phải duyên thì
dính như keo,
Trái duyên chống
chếnh như kèo đục vênh”
Có lẽ đây mới
là quan điểm chủ đạo, phù hợp với lối sống coi trọng tình cảm của quần chúng
lao động nghèo khổ. Vì vậy, việc ép duyên là lối ứng xử có tồn tại trong xã hội
nhưng nó không được coi là thước đo giá trị đạo đức mà là một hiện tượng cần
lên án. Tư tưởng Nho giáo có thể ảnh hưởng đến ứng xử trong hôn nhân, song nó
không bắt rễ sâu được vào tư tưởng của những người lao động chất phát . Người
xưa vẫn nhắc nhở nhau đừng tham giàu sang mà có những quyết định sai lầm :
-“Mâm vàng bỏ nải
chuối tàu
Vừa đôi thì lấy
ham giàu làm chi.”
-“Lấy chồng xem
trước ngó sau
Chớ thấy nương rộng
nhiều cau mà mừng.”
-“Ham giàu đã thấy
giàu chưa
Vừa ăn vừa khóc
như mưa tháng mười.”
Và tình nghĩa luôn luôn được đặt lên vị trí cao hơn
những giàu sang, danh lợi :
“Tình thương
quán cũng là nhà,
Lều tranh có
nghĩa hơn tòa ngói cao.”
“Nghèo nhân,
nghèo nghĩa thì lo
Nghèo tiền,
nghèo của chưa cho là nghèo.”
Ngoài yếu tố từ phía gia đình, những ứng xử với hôn
nhân của người Việt còn chịu sự tác động không nhỏ từ phía cộng đồng làng xã. Suy
cho cùng, để xem xét một phong tục, tập quán hay hiện tượng văn hóa ta phải đặt
nó trong một không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng nhất định mà cụ thể trong
trường hợp này là không gian văn hóa làng xã. Friedrich Engels từng nhận định bản
chất của làng xã là “một sự cố kết có
tính chất địa phương”, nó hình thành nên “tâm lý làng”, “giá trị làng”.
Chính điều này đã ảnh hướng đến sự lựa chọn đối tượng hôn nhân của những con
người sống trong cộng đồng nhỏ đó. Từ cả hai phía nam và nữ, họ đều có tâm lý
muốn kết hôn với những người cùng làng.
-“Ruộng đầu chợ,
vợ giữa làng”
-“Tậu ruộng giữa
đồng, lấy chồng giữa làng”
-“Lấy chồng khó
giữa làng,
Hơn lấy chồng
sang thiên hạ”
Và có những trường hợp các bậc cha mẹ chối từ, ngăn
cấm cũng vì cách trở không gian :
-“Em thưa với thầy
thì thầy mắng
Em thưa với mẹ
thì mẹ la
Trai làng thì kết,
khách đàng xa thì đừng.”
-“Có con mà gả
chồng xa,
Cũng như con cọp
bắt tha trong lùm.
Có con mà gả
trong làng.
Cũng bằng hụ
(hũ) vàng chôn ở trong cươi (sân).”
Tiêu chuẩn lấy người cùng làng này phản ánh rõ tâm
lý của người nông dân, sống đời này qua đời khác sau lũy tre làng với nền kinh
tế nông nghiệp tự cung tự cấp. Họ rất sợ phải chịu thân phận người ngụ cư, bơ
vơ nơi đất khách quê người dù nơi đó chỉ cách làng có mấy quãng đồng : “Thật thì cũng làng trên chạ dưới trong hàng
huyện, chẳng xa mấy. Đứng gốc cây đề ngoài cổng đồng trông qua bờ đìa, mờ mờ
trong lùm cây muỗm cổ thụ nhô lên hai cái cột trụ tam quan đình, những hôm
quang trời, bên này cũng thấy được lằn đê chắn ngang tầm mắt. Thế mà ngỡ như
đám mây trắng mùa hạ lững thững mãi mới sang đến bên ấy. Nghĩ ra thì là cách trở,
cả đời cô Vải cứ tưởng như thế.” (Lấy chồng khác làng – Tô Hoài). Tâm lý
phân biệt “dân chính cư – dân ngụ cư” ấy dường như là một phương tiện hành
chính để củng cố, duy trì sự ổn định của làng xã nhưng đôi khi, xét trên khía cạnh
tiêu cực, nó trở nên quá cực đoan, bảo thủ. Ngoài ra, tâm lý này còn xuất phát
từ sự gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn của người Việt. Bản thân họ dù có hạnh
phúc ở xứ người vẫn luôn đau đáu hướng về “quê
cha đất tổ”, vẫn “cọp chết ba năm
quay đầu về núi”. Người con gái trước khi ra đi để về nhà chồng thì đã bắt
đầu nhớ thương quay quắt “Ra đi ngó trước
ngó sau. Ngó nhà mấy cột, ngó cau mấy buồng”. Những thứ tưởng như rất đỗi bình
thường đã trở thành nỗi nhớ níu chân người, trở thành một chất keo gắn kết họ
chặt chẽ với mảnh đất mà họ sinh ra, trở thành một nỗi ám ảnh khôn nguôi nơi đất
khách.
Nếu như tâm lý lấy người cùng làng được hình thành để
củng cố sự ổn định của làng thì tục nộp cheo có thể xem như một cách thức để củng
cố sự ổn định đó trên phương diện kinh tế. Trong tục lệ hôn nhân của người Việt
xưa, nộp cheo là một nghi thức không thể thiếu trong việc cưới xin của trai
gái. Nếu thiếu nghi thức này thì không thể thành vợ thành chồng. Có thể hiểu
nôm na nộp cheo như một hình thức công bố mối quan hệ giữa hai người với làng
xã để được cộng đồng thừa nhận. Tục ngữ, ca dao có nhiều câu thừa nhận sự quan
trọng của tục lệ này trong hôn nhân :
-“Cưới vợ không
cheo như kèo không mấu.”
-“Cưới vợ không
cheo, tiền gieo xuống bể.”
-“Cưới vợ không
cheo, mười heo cũng mất.”
-“Nuôi lợn thì
phải vớt bèo,
Lấy vợ thì phải
nộp cheo cho làng.”
Định nghĩa tục nộp cheo, Phan Kế Bính đã nói rõ như
sau “Người trong làng lấy nhau thì nộp độ
một vài đồng bạc, gọi là cheo nội, người ngoài làng lấy gái làng thì bao giờ
cũng phải nộp nặng hơn, hoặc năm sáu đồng hoặc mười đồng hoặc một vài chục, tùy
tục riêng của từng làng, gọi là cheo ngoại. Có nơi không lấy tiền, bắt nộp bằng
gạch bát tràng, hoặc nơi thì bắt nộp bằng mâm đồng, bát sứ, tùy làng cần dùng
thức gì thì nộp thức ấy chớ không nộp tiền, nhưng chiếu giá tiền thì cũng tương
đương nhau. Ngoài lệ cheo làng, lại có cheo hàng xóm, cheo bản tộc, cheo bản
thôn, hoặc năm ba tiền kẽm hoặc một vài quan hay một hai đồng bạc…Hễ có cheo rồi
mới thành gia thất. Cheo tức là ý phân bua với làng nước. Lấy nhau đã có cưới
cheo là sự hôn thú phân minh, về sau vợ chồng có điều gì không dễ mà ly dỵ được
nhau và người ngoài cũng không có phép mà tranh cạnh được nữa” [3]. Có thể
nói tục nộp cheo đã trở thành một nét văn hóa đặc trưng của làng, thậm chí được
đưa vào hương ước của từng làng. Xét về mặt tích cực, việc nộp cheo ngày cưới
có thể xem như một hình thức đóng góp để xây dựng cuộc sống cộng đồng ngày một
tốt hơn (như đóng thuế nhà nước trong thời đại ngày nay chăng?). Chẳng hạn như
số gạch bát tràng được dùng để lót đường cho những ngày gió mưa khỏi lầy lội,
các vật phẩm như mâm đồng, bát sứ để dành sử dụng cho những phương việc chung của
làng, thể hiện tính dân chủ, mặc dù chỉ dừng lại ở tính dân chủ làng xã sơ khai.
Tuy nhiên, mặt tiêu cực của tục lệ nộp cheo xuất hiện
khi ý thức dân chủ, cộng đồng không còn
nữa mà thay vào đó là sự nhũng nhiễu của các vị hương lý trong làng. Với tâm lý
“Phép vua thua lệ làng”, những vị chức
sắc này đã tự đưa ra những điều khoản trong hương ước nhằm trục lợi và bắt chẹt
những đối tượng muốn tiến tới hôn nhân. Ca dao đã phản ánh tâm lý “vui vẻ” của
các vị này khi bắt cheo một cách hóm hỉnh :
“Ông xã đánh trống
thình thình
Quan viên mũ áo
ra đình ăn cheo.”
Sự nhũng nhiễu này đã trở thành một tác nhân cản trở
hạnh phúc hôn nhân của người nông dân, đặc biệt là người nông dân nghèo. Đây
cũng là một trong những nguyên nhân tại sao người con trai ngại cưới con gái
khác làng, nếu như họ không đủ khả năng trả mức tiền cheo ngoại quá nặng. Sự
nhũng nhiễu đó đã khiến triều đình phong kiến phải đưa ra những quy định chung
về tiền cheo để duy trì sự ổn định. Năm đầu niên hiệu Cảnh Trị (1663), vua Lê
Huyền Tông phải nhắc nhở trong 47 điều giáo hóa của mình rằng "Quan viên và binh lính ở xã thôn nhà gái
không được viện cớ người ta lấy chồng làng khác mà đòi tiền cheo quá lạm";
còn đến năm Gia Long thứ ba (1804) thì định lệ "về tiền cheo thì nhà giàu phải nạp mặt quan năm tiền, nhà bậc trung nạp
sáu tiền, nhà nghèo nạp ba tiền. Nếu lấy người làng khác thì phải nộp gấp đôi".
[4]
Nếu như lệ nộp cheo vẫn giữ được những ý nghĩa ban đầu
thì thực sự nó sẽ là một nét đặc trưng văn hóa khá đẹp. Nó như một sự gắn kết
giữa cá nhân với cộng đồng, như một hình thức đảm bảo cho cuộc hôn nhân (khi
chưa có luật hôn nhân như bây giờ), như một mối quan hệ có tính hỗ tương trong
phạm vi cộng đồng làng xã.
4.
Một vài nhận định
Qua phân tích những ứng xử với hôn nhân của người Việt
thông qua ca dao, tục ngữ, chúng ta nhận thấy những nét đặc trưng văn hóa thú vị
của cộng đồng người Việt xưa.
Thứ nhất, mặc dù Nho giáo đóng vai trò là tư tưởng
chủ đạo của chế độ phong kiến trong nhiều thế kỷ, song nó lại không bắt rể sâu
vào tư tưởng của quần chúng lao động, hay chí ít là trong tư tưởng hôn nhân. Những
mối quan hệ gắn bó, coi trọng tình nghĩa, sự bình đẳng trong ca dao, tục ngữ đã
chứng minh điều đó. Có thể thấy rằng, những hình ảnh gần gũi, chất phát, chan
chứa yêu thương như “Trên đồng cạn, dưới
đồng sâu. Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.” hay “Râu tôm nấu với ruột bầu. Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon.” rất
khác xa với tính chất gia trưởng của gia đình Nho giáo, trong đó vai trò của
người phụ nữ dường như lệ thuộc và thụ động. Điều này có thể được lý giải nếu chúng
ta tìm về bối cảnh thâm nhập vào Việt Nam của Nho giáo. Nho giáo thâm nhập vào
Việt Nam với âm mưu đồng hóa của người Trung Hoa, trong bối cảnh xã hội Việt
Nam có nhiều điểm khác biệt, trong đó quan trọng nhất là tính tự trị của làng
xã Việt Nam. Có thể nói, tính tự trị của làng xã Việt Nam đã trở thành một
thành trì bảo vệ vững chắc khiến Nho giáo không thể ăn sâu vào những nét văn
hóa bản địa của cộng đồng người Việt. Mọi yếu tố về địa vực, dân cư, phong tục,
tập quán… của làng xã Việt Nam đều mang nặng tính cục bộ, bản vị. “Sự đan xen nghề nghiệp; nông, công, thương
và mối quan hệ đa dạng phường hội, họ hàng, xóm, giáp; sự dung hợp các hệ tư tưởng
và tôn giáo… đã tạo cho làng cổ truyền một cơ sở vững chắc. Mỗi cá nhân đồng thời
là thành viên của nhiều tổ chức, phe giáp, và là thành viên của cộng đồng làng,
là bộ phận hữu cơ luôn gắn bó chặt chẽ với tổ chức làng.” [5]. Chính sự
liên kết chặt chẽ này đã tạo thành nội lực để làng xã Việt Nam chống lại mọi sự
thâm nhập từ bên ngoài. Như vậy, tính tự trị của làng xã Việt Nam đã góp phần
giữ vững những nét văn hóa đặc trưng của cộng đồng người Việt, chống lại sự đồng
hóa qua 1000 năm Bắc thuộc.
Thứ hai, chính yếu tố tự trị của làng xã Việt Nam đã
có những tác động tiêu cực đến những cá nhân, những yếu tố văn hóa hàm chưa bên
trong nó mà hôn nhân không phải là một ngoại lệ. Tính tự trị đã tạo nên “tâm lý làng”, “giá trị làng”, tính “cục bộ địa
phương” và vô hình trung đã tạo nên một rào cản đối với sự giao lưu văn
hóa. Điều này cũng đã ngăn cản rất nhiều cuộc hôn nhân giữa những người khác
làng, tạo ra tâm lý “bảo vệ gái làng” mà đến bây giờ vẫn tồn tại ở một số vùng
quê. Nó cũng khiến cho làng xã rời xa quỹ đạo quản lý của chính quyền trung
ương với tâm lý “phép vua thua lệ làng”,
tạo điều kiện cho cấp quản lý địa phương nhũng nhiễu quần chúng nhân dân mà sự
biến tướng của tục nộp cheo là một minh chứng sinh động. Như vậy, tính tự trị
đã góp phần bảo lưu những giá trị văn hóa tốt đẹp, song bên cạnh đó nó cũng duy
trì những hủ tục khó xóa bỏ.
Tóm lại, qua việc phân tích những ứng xử của người
Việt trong ca dao, tục ngữ, ta nhận ra được những nét bản sắc văn hóa thú vị của
người Việt. Mặc dù vẫn tồn tại những yếu tố tiêu cực, song tựu trung, ta vẫn thấy
nổi bật lên là tâm lý lựa chọn đối tượng hôn nhân dựa trên nền tản đạo đức,
tình cảm chân thật, sự bình đẳng, trọng nghĩa tình, hướng đến sự thuận hòa
trong ấm ngoài êm. Đó cần phải được xem như là những tinh hoa xử thế, những đạo
lý sống mà chúng ta phải bảo lưu và gìn giữ.
_____________________________________________________________________
[1]
Ngô Đức Thịnh : Văn hóa dân gian với đời
sống xã hội, Tạp chí văn học dân gian
[2] Phan Mậu Cảnh : Đặc trưng văn hóa, cội nguồn văn hóa và sự thể hiện chúng trong ca dao
người Việt
[3] Phan Kế Bính : Việt Nam phong tục, NXB Đồng Tháp, 1990, tr.180-181
[4] Trần Ngọc Thêm : Cơ sở văn hóa Việt Nam, TP.HCM, 1996
[5] Tính tự trị của làng xã Việt nam trong lịch
sử (http://ohdear.vn/?name=tintuc&file=newsdetail&id=7781)